Công nghiệp giải trí Việt Nam đang trên đà phục hồi và phát triển mạnh mẽ sau đại dịch COVID-19, với nhiều tiềm năng và cơ hội để trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Để khai thác tối đa tiềm năng này, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đã xây dựng “Đề án phát triển các ngành công nghiệp giải trí Việt Nam”, nhằm đưa các hoạt động giải trí thành một ngành kinh tế có quy mô và hiệu quả.
Công nghiệp giải trí – Động lực cho kinh tế và văn hóa
Ngành công nghiệp giải trí đã chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể trong các lĩnh vực như phim ảnh, âm nhạc và tổ chức sự kiện. Các bộ phim như “Bố già”, “Nhà bà Nữ”, series “Lật mặt” đã đạt kỷ lục phòng vé. Các chương trình truyền hình thực tế như “Ca sĩ giấu mặt”, “Anh trai say hi”, “Anh trai vượt ngàn chông gai” cũng thu hút đông đảo khán giả.

Một tiết mục trong chương trình “Anh trai vượt ngàn chông gai2024”
Thị trường giải trí Việt Nam – Tiềm năng và triển vọng
Với hơn 100 triệu dân, nhu cầu giải trí của người dân ngày càng tăng lên, đặc biệt là các loại hình giải trí chất lượng cao. Việc phát triển các ngành công nghiệp giải trí sẽ khai thác tối đa tiềm năng và tăng trưởng của ngành giải trí.
Các công ty giải trí như POPS Music, Đông Tây Promotion, Cát Tiên Sa, Điền Quân Media, M-TP Entertainment đang đầu tư mạnh vào sản xuất nội dung đa dạng và quản lý nghệ sĩ. Các nền tảng như YouTube, TikTok, Zalo trở thành kênh phát triển nội dung giải trí, với các KOLs và influencers hay các kênh giải trí.
PGS Bùi Hoài Sơn, Đại biểu Quốc hội chuyên trách tại Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, nhận định công nghiệp giải trí không chỉ đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng cao của người dân mà còn là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế và văn hóa.
Mục tiêu và giải pháp phát triển công nghiệp giải trí
Đề án dự kiến được triển khai tại tất cả các tỉnh, thành trên cả nước, trọng điểm là các đô thị lớn như Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng. Mục tiêu chung là đóng góp vào GDP, tạo việc làm, kích cầu phát triển các ngành khác, như ứng dụng công nghệ, dịch vụ văn hóa, du lịch văn hóa.
Mục tiêu cụ thể là đến năm 2035, công nghiệp giải trí đóng góp 10%-12% GDP, nằm trong tốp 5 các quốc gia khu vực châu Á. Phát triển ít nhất 10 trung tâm sản xuất sản phẩm giải trí lớn tại các tỉnh, thành phố lớn. Phấn đấu ít nhất 100 sản phẩm giải trí được xuất khẩu sang các thị trường.
Kinh phí thực hiện đề án dự kiến gồm 3 nguồn là ngân sách nhà nước: 20% (hỗ trợ chính sách, đào tạo); Đầu tư tư nhân: 60% (dự án sản xuất, cơ sở hạ tầng) và Hợp tác quốc tế: 20% (chuyển giao công nghệ, quỹ đầu tư).